Bệnh đau thắt ngực là tình trạng động mạch vành cung cấp cho tim bị tắc nghẽn tạm thời do các mảng xơ vữa bị thu hẹp, khiến máu không thể lưu thông về tim dẫn đến cơ tim bị thiếu máu và oxy. Do sự co bóp của động mạch vành, người bệnh sẽ cảm thấy đau sau xương ức hoặc trước tim, giống như cảm giác bóp hoặc thắt lại. Cơn đau thắt ngực thường xuất hiện sau bữa ăn nhiều dầu mỡ và nhiều muối, cãi vã căng thẳng hoặc làm việc ngoài trời lạnh,… Nếu không phòng tránh và cơn đau tiếp tục tăng lên sẽ gây ra cơn đau thắt ngực, nó có thể gây nhồi máu cơ tim và rất nguy hiểm đến tính mạng. Cùng hcasp.com tìm hiểu kỹ hơn về căn bệnh này qua bài viết dưới đây nhé!
Mục Lục
Hiểu đúng về bệnh đau thắt ngực
Đau thắt ngực là một thuật ngữ y học, chỉ triệu chứng của bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ. Nguyên nhân gây bệnh là một nhánh nhỏ của động mạch vành bị hẹp, làm cho một vùng cơ tim không được cấp máu đầy đủ nên không đảm bảo nuôi dưỡng cơ tim. Tuy nhiên, nhiều người bệnh cho rằng đau thắt ngực là cơn đau có cảm giác như thắt lại ở vùng ngực. Thực tế có rất nhiều cơn đau như vậy do các bệnh lý khác ở tim, phổi, thực quản, dạ dày, xương sườn, thần kinh, và ở cơ,… nhưng lại không phải do thiếu máu cơ tim cục bộ nên không được gọi là cơn đau thắt ngực.
Cơn đau thắt ngực thường tái diễn nhiều lần, mỗi cơn đau thường kéo dài từ 2 đến 10 phút. Cơn đau quá ngắn dưới 1 phút hoặc quá dài trên 15 phút, thường không phải là đau thắt ngực.
Đối tượng có nguy cơ bị bệnh đau thắt ngực
Bệnh thường xuất hiện ở tuổi trên 40 với nam chiếm 80%, trên 45% với nữ giới. Những người mắc các bệnh béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường, người ăn quá nhiều chất béo, có thói quen hút thuốc lá, ít vận động, hay phải lo nghĩ, gia đình tiền sử có người bị đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não,… đều là đối tượng có nguy cơ bị cơn đau thắt ngực.
Đau thắt ngực thường xảy ra khi nào?
Đau thắt ngực xuất hiện sau một hoạt động gắng sức như làm việc nặng, chạy, leo dốc cầu thang, quan hệ tình dục,… Nếu cơn đau xuất hiện khi nghỉ ngơi, thư giãn, ngủ,… thường không phải là đau thắt ngực. Yếu tố tâm lý như xúc động mạnh, bực tức, cáu giận, lo sợ,… cũng có thể là nguyên nhân xuất hiện cơn đau. Ngưỡng đau là mức độ gắng sức của người bệnh để xuất hiện cơn đau. Ví dụ như đau xuất hiện sau mỗi lần đi bộ được đúng 1km. Động mạch vành càng hẹp thì ngưỡng đau càng thấp, có những bệnh nhân chỉ vận động tăng lên một chút là đã xuất hiện cơn đau.
Đa số bệnh nhân có ngưỡng đau ổn định (cơn đau thắt ngực ổn định). Ví dụ như khi leo cầu thang lên đến tầng 3 là xuất hiện cơn đau, sáng chạy thể dục đến đúng một địa điểm là thấy đau, xách đến xô nước thứ 2 là thấy đau. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có cơn đau thắt ngực không ổn định. Đó là biểu hiện của bệnh càng ngày càng nặng lên, các cơn đau xuất hiện dày lên, đau dữ dội hơn, chỉ chạy đoạn ngắn, leo mấy bậc cầu thang,… đã đau. Đau thắt ngực không ổn định rất nguy hiểm vì khó phân biệt với nhồi máu cơ tim.
Cách xử lý cơn đau thắt ngực
Đa số đau xuất phát từ giữa ngực ngay sau xương ức, hoặc bên ngực trái vùng trước tim. Sau đó đau lan từ ngực lên vai trái. Nếu lan xa hơn sẽ xuống cánh tay trái, cẳng tay trái, ngón tay trái và thường là ngón út. Số ít trường hợp lan lên cổ, tay phải, thượng vị nhưng không bao giờ lan xuống đến rốn.
Khi đang hoạt động gắng sức mà xuất hiện cơn đau, phải tự dừng ngay hoạt động lại và nghỉ ngơi, cơn đau sẽ hết sau vài phút. Khi có những dấu hiệu cơn đau tức ngực, người bệnh cần đến ngay các trung tâm y tế để được các bác sĩ khám và chẩn đoán xác định cơn đau thắt ngực.
Hiện có rất nhiều thuốc tốt để điều trị và dự phòng cơn đau thắt ngực. Tuy nhiên, cần phải có chỉ định và theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc chuyên khoa. Để phòng cơn đau tức ngực, chế độ ăn giảm mỡ và muối, không hút thuốc lá. Đồng thời cần tăng cường luyện tập thể dục và vận động thân thể. Ngoài ra, cần điều trị tốt các bệnh béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường.
Cách phòng ngừa bệnh đau thắt ngực
Cho dù người bệnh đã được điều trị bằng phương pháp ngoại khoa hay tim mạch can thiệp thì việc thay đổi lối sống, điều trị một số bệnh có liên quan và tiếp tục sử dụng lâu dài một số thuốc là hết sức cần thiết để điều trị và phòng ngừa đau thắt ngực.
- Thay đổi lối sống: Hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu của bệnh. Do vậy không hút thuốc lá là yêu cầu quan trọng. Xây dựng một lối sống thanh thản, vui vẻ, tránh căng thẳng quá mức, nhất là tình trạng stress.
- Hạn chế tối đa ăn mỡ động vật. Nên ăn nhiều rau xanh, trái cây. Ăn ít đường, bơ, phomat. Không nên ăn mặn và những món dưa, cà càng hạn chế. Đặc biệt, không nên khoái khẩu với các món phủ tạng động vật, nhiều người cho rằng “ăn gì bổ nấy” cho nên người mắc bệnh tim mạch lại hay ăn tim động vật, điều này chẳng những không bổ dưỡng cho tim mà còn làm gia tăng những yếu tố nguy hiểm cho tim, đó chính là sự gia tăng của cholesterol có hại. Không uống nhiều rượu, bia và những chất kích thích khác.
- Tập thể dục thường xuyên, đặc biệt là đi bộ hằng ngày. Nên đi bộ tối thiểu là 30 phút/ngày vào buổi sáng hoặc buổi tối.
- Đối với những người đã có cơn đau thắt ngực ổn định, tất cả những yêu cầu trên càng cần phải kiêng và thực hiện triệt để. Đồng thời cần phát hiện và điều trị những bệnh liên quan đến bệnh mạch vành. Ví dụ như tiểu đường, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, béo phì – thừa cân.